Về người bị “bắn thí điểm” trong Cải cách ruộng đất

<div class="boxleft300"><img
src="http://dannews.info/wp-content/uploads/2014/09/ban-300x184.jpg" /><div
class="textholder"></div></div>Cho đến nay, Cải cách ruộng đất
(CCRĐ) 1953-1956 vẫn là một trong những giai đoạn bi thương
nhất trong lịch sử phát triển của đất nước. Kết quả là
hàng trăm ngàn người bị bắt, giết, gia đình ly tán.

Người đầu tiên được "lựa chọn" để "xử bắn thí
điểm" là bà Nguyễn Thị Năm. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua,
câu chuyện về bà Năm, từ khi bà bị bắn năm 1953 cho đến
nay, vẫn là đề tài gây nhiều tranh cãi và còn không ít những
uẩn khúc cần tiếp tục được giải mã.

<strong>CCRĐ – bi kịch của lịch sử dân tộc</strong>

Để chúng ta có thể hình dung lại, mức độ, quy mô và hậu
quả của một trong những giai đoạn bi thương nhất của lịch
sử dân tộc, chúng ta cùng nhau trở về thời kỳ 1953-1956.

Tháng 11 năm 1953 Quốc hội VNDCCH nhóm họp và thông qua Dự
luật CCRĐ 197/HL. Chủ tịch Hồ Chí Minh phê thuận và chính
thức ban hành bộ luật này vào ngày 19-12-1953 để kỷ niệm
ngày Toàn quốc Kháng chiến, mang tên "Luật Cải cách Ruộng
đất". Đồng thời điểm này, Ủy ban Chấp hành Trung ương
Đảng Lao động Việt Nam và Đại hội Toàn quốc Đảng Lao
động Việt Nam cũng họp và tổ chức chuẩn bị thi hành CCRĐ
sâu rộng trên toàn lãnh thổ. Ủy ban lãnh đạo chương trình
CCRĐ và hoạch định tiến trình CCRĐ được thành lập.

Hồ Chí Minh, Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước phát động và
làm tư tưởng chiến dịch.

Trưởng ban chỉ đạo trực tiếp là ông Trường Chinh lúc bấy
giờ là Tổng bí thư Đảng. Trưởng ban chỉ đạo thí điểm
khu vực Thái Nguyên là Hoàng Quốc Việt, Ủy viên Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương đảng; Trưởng ban chỉ đạo thí
điểm vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh là Lê Văn Lương, Ủy
viên dự khuyết Bộ Chính trị và Giám đốc trực tiếp điều
hành chiến dịch là ông Hồ Viết Thắng, Ủy viên dự khuyết
Ban Chấp hành Trung ương đảng.

Chương trình CCRĐ được áp dụng qua bốn bước chính như sau:

<ol> <li><strong> Huấn luyện cán bộ
</strong>
Các cán bộ tham gia CCRĐ được đưa đi học khóa Chỉnh huấn
1953 và một số được đưa đi huấn luyện tại Trung Quốc.
Các chương trình học tập nhằm giúp cán bộ nắm vững
đường lối của Đảng trong CCRĐ, quán triệt quan điểm:
"Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ". Tổng
số cán bộ được điều động vào công tác là gần 50.000
người.<strong>2. Chiến dịch Giảm tô</strong>

Bước đầu, các đội cán bộ CCRĐ đi vào các làng xã và áp
dụng chính sách "3 Cùng" (cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm) với
các bần cố nông trong làng xã đó, kết nạp họ thành
"rễ", thành "cành" của Đội, sau đó triển khai chiến
dịch từng bước như sau:

</li> </ol> – Phân định thành phần: Đội CCRĐ ra mắt làng xã,
và tất cả các gia đình trong xã được họ phân loại thành 5
thành phần: (a) địa chủ; (b) phú nông; (c) trung nông cứng (sở
hữu 1 con bò, 1 con heo, 1 đàn gà); (d) trung nông vừa (sở hữu 1
con heo, 1 đàn gà); (e) trung nông yếu (sở hữu 1 đàn gà hay
không có gì cả); (f) bần nông; (g) cố nông. Gia đình có 2 con
heo đã có thể gọi là phú nông. Tỷ lệ địa chủ được quy
định trước là 5,68% dân số nông thôn và các đoàn và đội
cải cách đều cố truy bức để đôn tỷ lệ địa chủ lên 5%
như một quy định bắt buộc, gọi là "kích thành phần".

– Phân loại địa chủ: Tất cả các gia đình bị xếp vào
thành phần địa chủ như nói trên được đội cải cách phân
loại thêm một lần nữa thành (a1) Địa chủ gian ác; (a2) Địa
chủ thường; (a3) Địa chủ có ủng hộ kháng chiến. Thành
phần địa chủ gian ác bị đội cải cách bắt ngay lập tức
và quản thúc.

– Áp dụng thoái tô: Đối với các gia đình có địa chủ
bị bắt nói trên, Đội cải cách thông báo với họ về các
sắc lệnh giảm tô của Chính phủ, bao gồm: Sắc lệnh giảm
tô xuống còn 25% vào tháng 11-1945, Sắc lệnh số 87/SL năm 1952
và 149/SL năm 1953 giảm tô thêm 25%.

(Cần nói thêm rằng, tại miền Bắc, tô hay địa tô là tiền
thuê ruộng mà tá điền phải trả cho địa chủ sau mùa gặt,
có thể trả bằng thóc. Căn cứ theo đó, địa chủ nào chưa
giảm tô cho nông dân thì bây giờ phải trả số nợ đó –
gọi là "thoái tô". Nếu không trả đủ nợ thì tài sản
bị tịch thu, phân phát do nông dân).

(Sau bước này, hầu hết gia đình địa chủ lâm vào hoàn
cảnh khánh kiệt, nhiều người đến chỗ tự sát).

– Học tập tố khổ, lùng bắt địa chủ: Các bần nông, cố
nông, "gốc", "rễ" được Đội cải cách cho đi học
lớp tố khổ do Đội mở, qua đó học viên được nhận dạng
các tội ác của địa chủ và được khuyến khích nhớ ra tội
ác của từng địa chủ đã bóc lột họ như thế nào.

– Công khai đấu tố: Ban đầu các buổi đấu tố được tổ
chức, thông thường vào ban đêm (do để tránh máy bay địch
oanh tạc. Sau đó được tiến hành vào ban ngày). Số lượng
người tham gia đấu tố được huy động từ vài trăm đến
cả ngàn người. Thời gian đấu tố từ một đến ba đêm tùy
theo mức độ tội trạng của địa chủ. Trong đêm đấu tố,
các bần nông bước ra kể tội địa chủ đã bóc lột họ như
thế nào. Tại các tỉnh có tổ chức cải cách ruộng đất
đều cho ra tờ báo lấy tên là Lá Rừng (ngụ ý tội ác địa
chủ nhiều như lá rừng) tường thuật chi tiết các vụ đấu
tố. Sau khi bị đấu tố các địa chủ được tạm giam trở
lại để chờ tòa án nhân dân xét xử. Gia đình và thân nhân
người bị đấu tố bị cô lập và chịu nhiều sự phân biệt
đối xử thậm chí là nhục hình.

– Xử án địa chủ: Tại các huyện, một tòa án nhân dân
đặc biệt được lập ra và đi về các xã xét xử các địa
chủ. Sau khi kết án, địa chủ bị xử bắn trước công chúng
do đội tự vệ xã hành quyết. Những người không được xử
bắn thì bị cô lập trong các làng xã.

Tổng cộng có tám đợt giảm tô từ 1953 đến 1956 tiến hành
tại 1.875 xã.

<strong>3. Chiến dịch CCRĐ
</strong>
Nhiều tháng sau khi Chiến dịch Giảm tô được triển khai,
chương trình CCRĐ chính thức bắt đầu, với hình thức tương
tự nhưng trên địa bàn rộng lớn hơn. Tổng cộng có 6 đợt
CCRĐ từ 1953 đến 1956, được tiến hành tại 3.314 xã.

Từ cuối năm 1954, dưới sức ép của cố vấn Trung Hoa, chiến
dịch cải cách ruộng đất bắt đầu được đẩy mạnh và
nhanh, với cường độ lớn. Từ giữa năm 1955 ở một số nơi
đã xuất hiện hiện tượng đấu tố tràn lan, mất kiểm soát.
Từ đó đến cuối năm 1955, cảnh đấu tố địa chủ xảy ra
tràn lan, nhiều lúc chỉ đơn thuần bằng một lời tố giác
đơn giản, những thành viên trong tòa án nhân dân cũng có thể
xử tử hình hay tù khổ sai đối với người bị tố giác. Đã
xuất hiện tình trạng lạm dụng quyền hành của các cán bộ
đội viên đội công tác ruộng đất trong công tác đất đai.
Số người chết trong đợt này là rất lớn, trong đó số
người chết oan chiếm tỷ lệ cao. Quyết liệt nhất là ở
Thái Bình, nơi có đến 294 xã được đưa vào cải cách.

<strong>4. Chiến dịch Sửa sai</strong>

Do nhận định chiến dịch CCRĐ giết lầm nhiều người vô
tội và gây ra chống đối mạnh trong dân chúng, Đảng Lao
động Việt Nam và Chính phủ tiến hành các bước sửa sai.

Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 9 tuyên
bố các sai lầm trong CCRĐ. Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần
thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa
sai. Ngày 18- 8-1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng
bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương Đảng
và Chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm. Ngày
24-8-1956, báo Nhân Dân công bố có một số đảng viên trung
kiên đã bị hành quyết sai lầm trong chiến dịch CCRĐ. Tháng 9
năm 1956, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(họp từ 25-8 đến 24-9-1956) nhận định các nguyên nhân đưa
đến sai lầm và thi hành kỷ luật đối Ban lãnh đạo chương
trình CCRĐ. Kết quả là ông Trường Chinh từ chức Tổng Bí
thư Đảng, hai ông Hoàng Quốc Việt và Lê Văn Lương ra khỏi
Bộ Chính trị và ông Hồ Viết Thắng ra khỏi Chấp hành Trung
ương.

Ngày 29-10-1956, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người không tham
gia trực tiếp vào chương trình CCRĐ, thay mặt Chủ tịch nước
đọc bản báo cáo của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại nhà hát lớn Hà Nội, kê khai sai lầm và
phát động chiến dịch sửa sai, phục hồi các chức vụ tài
sản cho cán bộ, bộ đội bị đấu tố.

Cũng cần phải nói thêm là chiến dịch sửa sai cũng gây thêm
chết chóc khi những người được phục hồi trả thù những
người đã đấu tố họ oan ức, hoặc chưa kịp trả thù thì
bị thủ tiêu trước để tránh việc trả thù.

Phong trào trả thù bằng bạo động lan rộng khiến nhà chức
trách phải dùng quân đội trấn áp. Ở Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ
An, có bản báo cáo ghi nhận 20.000 nông dân mang gậy gộc chống
lại quân đội khi chính quyền dùng vũ lực để tái lập trật
tự.

Tuy nhiên, theo nhiều nhân chứng mà tôi có dịp trao đổi thì
việc sửa sai chỉ đơn thuần là phục hồi đảng tịch, quy
lại thành phần (từ địa chủ, phú nông trở lại thành trung
nông) chứ ít khi họ được trả lại tài sản, nhà đất.

Thậm chí mãi đến năm 2004 (theo báo Hà Nội Mới) thì Ủy ban
Nhân dân thành phố Hà Nội mới ra quyết định trợ cấp cho
một số trường hợp bị qui sai thành phần và có tài sản bị
trưng thu, trưng mua trong thời kì CCRĐ với mức ba triệu đồng
một trường hợp.

<strong>Nguyễn Thị Năm là ai?</strong>

Khi cuộc CCRĐ được tiến hành và trớ trêu thay, người đầu
tiên được "lựa chọn" để bắn "thí điểm" là bà
Nguyễn Thị Năm. Sau những cuộc đấu tố với đủ các thứ
tội ác được gán ghép, người phụ nữ mới 47 tuổi (sinh năm
1906) này đã bị đem ra xử bắn (năm 1953) và được báo chí
đương thời coi là phát súng hiệu cho một cuộc vận động
"long trời lở đất".

<center><a
href="http://dannews.info/wp-content/uploads/2014/09/gia_dinh_ba_cat_hanh_long.jpg"
onclick="_gaq.push(['_trackEvent', 'outbound-article-',
'http://dannews.info/wp-content/uploads/2014/09/gia_dinh_ba_cat_hanh_long.jpg',
'']);"><img
src="http://dannews.info/wp-content/uploads/2014/09/gia_dinh_ba_cat_hanh_long-300x230.jpg"
width="450"></a></center>
<center><em>Bà Cát Hạnh Long (Nguyễn Thị Năm) người phụ nữ
đầu tiên bị bức tử trong đợt cải cách ruộng đất. Bà
cũng là người nuôi giấu Hồ Chí Minh</em></center>

<em>Vậy bà Nguyễn Thị Năm là ai? <strong>
</strong></em>
Theo nhà sử học Dương Trung Quốc thì "Bà Nguyễn Thị Năm,
hay còn gọi là Cát Hanh Long (tên hiệu trong buôn bán giao dịch
của bà Năm, được ghép từ tên của hai người con trai của
bà là Nguyễn Hanh và Nguyễn Cát-NV) sinh năm 1906 vốn là một
phụ nữ giỏi làm ăn trên đất cảng Hải Phòng, từ nhiều
nghề khác nhau trong đó có buôn bán sắt vụn, bà đã sớm
thành đạt trên thương trường, xây nhà tậu ruộng như thói
tục của người xưa vừa làm ăn nơi thành thị vừa bám sát
với thôn quê, nhất là vào thời chiến tranh loạn lạc.

Người sớm giác ngộ nhà buôn trẻ tuổi Nguyễn Thị Năm
chính là nhà văn Nguyễn Đình Thi tham gia Mặt trận Việt Minh
ở Hải Phòng rồi sau đó bà gặp, công tác phục vụ, giúp
đỡ nhiều cán bộ cách mạng. Sau này bà là người đã che
giấu và nuôi dưỡng nhiều cán bộ lãnh đạo cấp cao của
Đảng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Đồng, Lê
Đức Thọ, Lê Thanh Nghị, Lê Giản, Hoàng Hữu Nhân (Bí thư
Thành uỷ Hải Phòng), Hoàng Tùng, Vũ Quốc Uy, Hoàng Thế
Thiện…

Khó kể hết những đóng góp của nhà tư sản ấy cho cách
mạng. Từng ủng hộ Việt Minh trước Cách mạng Tháng Tám
20.000 đồng bạc Đông Dương (tương đương bảy trăm lạng
vàng) rồi sau này là thóc gạo, vải vóc, nhà cửa. Bà là một
trong những người đóng góp tiêu biểu nhất của "Tuần lễ
Vàng" ở Hải Phòng với hơn một trăm lạng vàng.

Một sự kiện vô tiền khoáng hậu khi ấy đối với một phụ
nữ chân yếu tay mềm là bà đã ngồi trên chiếc xe ô tô riêng
của gia đình mình, treo cờ đỏ sao vàng, phóng từ Hải Phòng
lên thẳng Chiến khu qua thành phố Thái Nguyên, nơi quân Nhật
còn chiếm đóng đến Đồng Bẩm, Đình Cả, Võ Nhai để báo
cho con trai và các đồng chí của mình tin Hà Nội đã giành
được chính quyền. Sau thời điểm kháng chiến toàn quốc, bà
chính là người đã trao chiếc búa cho đội tự vệ làm cái
việc san bằng địa khu biệt thự Đồng Bẩm thực hiện chủ
trương tiêu thổ kháng chiến".

Cũng vẫn theo nhà sử học Dương Trung Quốc "Hai con trai bà,
ông Nguyễn Công và ông Nguyễn Hanh đều theo Việt Minh từ
trước 1945. Khi CCRĐ được phát động, ông Nguyễn Hanh là
Đại đội phó bộ đội thông tin. Ông Hanh từng bị thương khi
toàn quốc kháng chiến bùng nổ ngay ở Cầu Giấy – cửa ngõ
Thủ đô. Còn ông Công từng tháp tùng đoàn đại biểu chính
phủ do các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu… vào Huế
tước ấn kiếm vua Bảo Đại rồi sau này trở thành một Trung
đoàn trưởng nổi tiếng của Sư đoàn 351".

Trong suốt thời gian kháng chiến chống Pháp, bà Năm tham gia
các cấp lãnh đạo của Hội Phụ nữ của tỉnh Thái Nguyên và
Liên khu Việt Bắc… Nhiều cán bộ cách mạng, nhiều đơn vị
bộ đội thường tá túc trong đồn điền của bà cho đến khi
bà bị đưa ra đấu tố và bị bắn "thí điểm".

<strong>Vì sao lại là bà Năm?</strong>

Trong Hồi ký của mình ông Đoàn Duy Thành, từng là Bí thư
Thành ủy Hải Phòng, sau này là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương
và tiếp theo là Phó Chủ tịch HĐBT có kể: "Sau này khi sửa
sai CCRĐ xong, tôi được nghe nhiều cán bộ cao cấp nói lại:
"Khi chuẩn bị bắn Nguyễn Thị Năm, Bác Hồ đã can thiệp và
nói đại ý: 'Chẳng lẽ CCRĐ không tìm được một tên địa
chủ, cường hào gian ác là nam giới mà mở đầu đã phải
bắn một phụ nữ địa chủ hay sao?". Nhưng cán bộ thừa
hành báo cáo là đã hỏi cố vấn Trung Quốc và được trả
lời là: "Hổ đực hay hổ cái, đều ăn thịt người cả!".
Thế là đem hành hình Nguyễn Thị Năm!"

Thủa sinh thời, trong một lần trò chuyện với ông Hoàng Tùng,
Trưởng Ban tuyên giáo Trung ương, người từng nhiều năm
"điếu đóm" cho Cụ Hồ (ông tự nhận thế) có kể lại
rằng (1): "Chọn địa chủ Nguyễn Thị Năm để làm trước
là do có người mách cho cố vấn Trung Quốc. Họp Bộ Chính
trị Bác nói: "Tôi đồng ý người có tội thì phải xử
thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu
tiên lại nổ vào một người đàn bà, mà người ấy lại cũng
giúp đỡ cho cách mạng, người Pháp nói không nên đánh vào
đàn bà, dù chỉ là đánh bằng một cành hoa". Sau cố vấn
Trung Quốc là Lê Quý Ba đề nghị mãi, Bác nói: "Tôi theo đa
số, chứ tôi vẫn cứ cho là không phải". Và họ cứ thế
làm".

Khi còn sống Giáo sư Trần Quốc Vượng có lần kể lại với
tôi rằng theo lập luận của đội CCRĐ thì "Việc con mụ Năm
đã làm chỉ là giả dối nhằm chui sâu, leo cao vào hàng ngũ
cách mạng để phá hoại. Bản chất của giai cấp địa chủ
là rất ngoan cố xảo quyệt và tàn bạo, chúng không từ thủ
đoạn nào để chống phá cách mạng. Nông dân phải luôn luôn
sáng suốt dù chúng giở thủ đoạn nào".

Ông Bùi Tín còn kể: "Ông Hoàng Quốc có lần Việt kể lại
rằng hồi ấy ông chạy về Hà Nội, báo cáo việc hệ trọng
này với cụ Hồ Chí Minh. Cụ chăm chú nghe rồi phát biểu:
Không ổn! Không thể mở đầu chiến dịch bằng cách nổ súng
vào một phụ nữ, và lại là một người từng nuôi cán bộ
cộng sản và mẹ một chính uỷ trung đoàn Quân đội Nhân dân
đang tại chức. Ông hẹn sẽ can thiệp, sẽ nói với Trường
Chinh về chuyện hệ trọng và cấp bách này. Thế nhưng không
có gì biến chuyển cả".

Còn tác giả của "Màu tím hoa sim" Hữu Loan thì nói với
tôi rằng, việc lựa chọn bà Năm có các nguyên do sau: Thứ
nhất, phương châm chính trong CCRĐ là "thà giết lầm 10
người vô tội, còn hơn để thoát một kẻ thù". CCRĐ là
một cuộc đấu tranh giai cấp giữa bần cố nông và địa chủ
(nông dân có ruộng). Do đó địa chủ không thể được lọt
lưới, được bỏ sót. Bà Năm lại có đến 2,789 mẫu đất,
là một đại địa chủ. Thứ nhì, phát súng đầu tiên bắn
vào một phụ nữ để xác định CCRĐ là một cuộc đấu tranh
giai cấp và trong đấu tranh giai cấp không phân biệt địa chủ
phong kiến là phụ nữ hay đàn ông. Thứ ba, ảnh hưởng kinh
tế và chính trị của bà, và của các địa chủ khác, cần
phải được thủ tiêu để mở đường xây dựng chế độ
mới.

Vấn đề được đặt ra ở đây là, người đứng đầu
Đảng LĐVN lúc đó có thực sự "bất lực" trước sức ép
của cố vấn Trung Quốc mà buộc phải đồng ý cho xử bắn bà
Nguyễn Thị Năm không?

Điểm qua như thế để chúng ta thấy được rằng vụ án
Nguyễn Thị Năm nói riêng và CCRĐ nói chung còn rất nhiều uẩn
khúc. Những uẩn khúc này không phải chỉ liên quan đến các
nạn nhân hay gia đình nạn nhân CCRĐ. Nó còn in đậm nét trong
tâm trí của những người đã một thời tin vào chủ nghĩa
cộng sản, vào lý tưởng cộng sản, trong đó có những người
từng trực tiếp tham gia CCRĐ. Những uẩn khúc này cần phải
tiếp tục được làm sáng tỏ.

<strong>Bà Năm bị đấu tố và xử bắn như thế nào?
</strong>
Tôi đã nhiều lần có dịp lên Đồng Bẩm (Thái Nguyên) để
tìm hiểu và nghe lại những vị cao niên ở đây kể về vụ
án bà Nguyễn Thị Năm, nhưng tiếc rằng, kết quả thu được
không nhiều. Năm 2007, tình cờ tôi có đọc được bài viết
trên "Người Làng Trà" Nhà báo Nguyễn Thông đã đưa một
số chi tiết có liên quan đến bà Nguyễn Thị Năm. Tôi có tìm
đến cụ Vãn mà anh Thông nói tới, người được cho là
người ở trong nhà bà Năm. Tuy nhiên cụ Vãn đã khước từ
kể nhớ lại chuyện cũ.

Theo cuốn "Trần Huy Liệu – Cõi đời" của Trần Chiến,
Nhà xuất bản Kim Đồng 2009, thì ông Trần Huy Liệu, lúc đó
là uỷ viên Thường trực Quốc hội, thanh tra Cải cách Ruộng
đất tại hai xã Đồng Bẩm, Dân Chủ (Thái Nguyên). Ông dự
cả hai buổi xử Nguyễn Văn Bính (ngày 18-5-1953) và bà Nguyễn
Thị Năm (22-5-1953).thì phiên xét xử bà Nguyễn Thị Năm diễn
ra như sau:

"Hôm ấy là ngày 22/5/1953, trời nắng chói chang. Để tránh
cái nắng nóng nhiều người đã lấy cành cây che đầu, nhưng
vì làm như thế thì người ngồi sau sẽ bị che khuất nên Chủ
tịch đoàn đã yêu cầu mọi người vứt lá đi. Phiên tòa hôm
ấy khoảng 1 vạn người. Cũng như ngày trước, Chủ tịch
đoàn lại ra lệnh cho quần chúng hễ thấy địa chủ vào là
đả đảo kịch liệt. Khi bà Nguyễn Thị Năm và hai con Hanh,
Công (2) cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính, Chiêu được Đội
dân quân dẫn vào các bần cố nông đã bật dậy hô đả đảo
vang trời. Có người còn đòi "bọn địa chủ gian ác" phải
đứng lên cao và quay mặt tứ phía cho ai nấy đều trông thấy
mặt để đả đảo.

Chủ tịch đoàn giới thiệu từng tên "địa chủ ác ôn"
và ngắc ngứ đọc lý lịch, nhưng không nêu tội ác cụ thể.
Cứ sau mỗi lần như vậy những người tham dự phiên tòa lại
hô vang 3 lần: "Đã đảo, đã đảo, đã đảo!".
Đám đông đã tỏ ra hết sức phẩn nộ trước thái độ của
đội Hàm. Đôi mắt anh này cứ gườm gườm đầy thách thức.
Nhiều người đã hét lên yêu cầu lính gác phiên tòa "tát cho
nó nảy đom đóm mắt ra để nó cúi gằm mặt xuống mà nhận
tội".Rút kinh nghiệm lần trước, Chủ tịch đoàn tuyên bố
đề nghị quần chúng phải giữ vững trật tự và không cần
đánh đập tội nhân hay bắt quỳ, bò".

Vẫn theo Trần Huy Liệu: bà Năm, tham gia phiên tòa hôm ấy kể
lại rằng: bà Năm cùng đầy tớ là đội Hàm, Chính được cho
ngồi trên một cái bục dưới gốc cây. Quần chúng lần lượt
vào đấu tố.

Những tiếng hò hét "Mày có biết tao là ai không?", "Mày
dựa vào thế lực nào?", "Mày cho tao ăn cơm của chó, mèo
thế à?"… vang lên rầm rầm. Bầu không khí hờn căm ngùn
ngụt ngút trời xanh! Rút kinh nghiệm của lần đấu trước đó
là cứ sau mỗi lần hô như vậy là kèm theo một cái tát vào
mặt kẻ bị đấu tố, lần này Chủ tịch đoàn yêu cầu:
"chỉ đấu tố, không được tát kẻ thù!"

Những người tố được quần chúng cảm động và tán
thưởng nhiều nhất là bà Sâm, chị Đăng và anh Cò. Bà Sâm,
với một giọng gợi cảm, kể lể vì Thị Năm mà mình phải
suốt đời cô độc, có người rơi nước mắt. Nhưng sự
thực, nội dung câu chuyện không có gì.

Chị Đăng (3), một người ở của gia đình bà Năm lâu năm,
tố lên rất nhiều sự việc bí mật và chi tiết. Nhưng, tiếc
là với một giọng quá lưu loát quen thuộc như một người
"tố nghề" được huấn luyện nên ít làm cho ai cảm động.

Cũng có những người lên tố, nhưng do trình độ, học vấn
không có nên nói không đạt ý, không rõ việc. Không ai hiểu
họ nói gì. Một bà tên là Minh nói việc chẩn bần tại đồn
điền Đồng Bẩm năm 1945 đã làm bao nhiêu người chết đói,
rồi kết luận bằng những câu: "Mày đừng nhận là chủ
đồn điền có được không?", "Mày chỉ có hình thức
thôi" và "Mày nói nhân nghĩa mà mày không nhân nghĩa gì
cả" khiến người nghe không hiểu tội bà Năm ở đâu.

Còn một ông tên là Giồng tố cáo bà Năm đã cướp gánh cỏ
của ông ta để cho ngựa của bà ăn và cướp cả giỏ củ mài
làm cho cả nhà ông ta phải nhịn đói.

(Câu chuyện tuy hết sức phi lý và hài hước của ông này,
nhưng thật kỳ lạ là sau đó đã được một văn nghệ sĩ làm
thành hẳn một bài thơ tràng thiên rất cảm động-NV).

Con gái ông Giồng, hơn mười tuổi, đáng nhẽ cứ kể rành
rọt cảnh đói rét của nhà mình phải chịu vì sự bóc lột
của bà Năm, nhưng nó lại nói bằng một giọng "bà cự"
nên nhiều người không cảm động, mà lại phát ghét.

Hài hước hơn cả là trường hợp của một chị có tên là
Lý. Chị Lý tố cáo rằng, chị ta là con nuôi của bà Năm,
được bà Năm trang điểm cho để định gả cho một võ quan
Nhật. Nhưng sau khi biết chị chỉ là thân phận tôi đòi, không
có tiền của gì thì tên Nhật lại không lấy và chị lại bị
bà Năm bắt lột trả lại quần áo, trở lại thân tàn ma dại
như trước. Nội dung tố cáo chỉ là thế, nhưng vì chị ta
vừa nói vừa khóc nên không ai rõ chị ta nói gì.

Tuy vậy, trong đám người tố, vẫn còn sót lại một ít
những phong thái cũ. Câu hỏi "Mày có biết tao là ai không?"
đã được chủ tịch đoàn ngắt đi bằng câu: "Cứ việc tố
không cần bắt nó trả lời". Một vài cái tát vẫn còn diễn
ra. Một người ở Phúc Trừu tố cáo Thị Năm về tội chiếm
đoạt ruộng đất khẩn hoang của nông dân và cơi thùng thóc
lên để thu thóc, rồi kết luận "Như thế mày có xứng đáng
là địa chủ không?". Một người khác tố Thị Năm, đội
Hàm và Lý Nguyên Lập bảo an đoàn ở Phúc Trừu bắt nông dân
gác và đánh đập tàn nhẫn, cũng để đi tới kết luận:
"Mày là con chó! Chứ không phải địa chủ?".

Một tá điền tố Thị Năm lấy ruộng của mình đương làm
bán cho người khác vì mình không có tiền mua, bằng câu:
"Lấy tiền ở mả bố mày mà mua à?". Nhiều người vẫn
gắn vào hai chữ "tiến bộ": "Mày nói mày tiến bộ mà
như thế à?" Đi xa hơn nữa, có người nói Thị Năm lập quán
Bông Lau ở thị xã Thái Nguyên để đón gián điệp trong khi ai
cũng biết đó là cơ quan sinh lợi của hội Phụ nữ liên hiệp
tỉnh Thái Nguyên".

<strong>Địa chủ ác ghê
</strong>
<em>Chỉ một ngay sau khi bắn bà Năm, ngày 21-7-1953, báo Nhân
dân đăng bài "Địa chủ ác ghê". Sau đây là toàn văn bài
báo:</em>

<strong>Địa chủ ác ghê</strong>

Thánh hiền dạy rằng: "Vi phú bất nhân". Ai cũng biết
rằng địa chủ thì ác: như bóc lột nhân dân, tô cao lãi
nặng, chây lười thuế khoá – thế thôi. Nào ngờ có bọn
địa chủ giết người không nháy mắt. Đây là một thí dụ:

Mụ địa chủ Cát-hanh-Long cùng hai đứa con và mấy tên lâu la
đã:
– Giết chết 14 nông dân.

– Tra tấn đánh đập hằng chục nông dân, nay còn tàn tật.

– Làm chết 32 gia đình gồm có 200 người – năm 1944, chúng
đưa 37 gia đình về đồn điền phá rừng khai ruộng cho chúng.
Chúng bắt làm nhiều và cho ăn đói. Ít tháng sau, vì cực khổ
quá, 32 gia đình đã chết hết, không còn một người.

– Chúng đã hãm chết hơn 30 nông dân – Năm 1945, chúng đưa
65 nông dân bị nạn đói ở Thái Bình về làm đồn điền.
Cũng vì chúng cho ăn đói bắt làm nhiều. Ít hôm sau, hơn 30
người đã chết ở xóm Chùa Hang.

– Năm 1944-45, chúng đưa 20 trẻ em mồ côi về nuôi. Chúng
bắt các em ở dưới hầm, cho ăn đói mặc rách, bắt làm quá
sức lại đánh đập không ngớt. Chỉ mấy tháng, 15 em đã bỏ
mạng.

Thế là ba mẹ con địa chủ Cát-hanh-Long, đã trực tiếp, gián
tiếp giết ngót 260 đồng bào !

Còn những cảnh chúng tra tấn nông dân thiếu tô thiếu nợ,
thì tàn nhẫn không kém gì thực dân Pháp. Thí dụ:

– Trời rét, chúng bắt nông dân cởi trần, rồi dội nước
lạnh vào người. Hoặc bắt đội thùng nước lạnh có lỗ
thủng, nước rỏ từng giọt vào đầu, vào vai, đau buốt tận
óc tận ruột.

– Chúng trói chặt nông dân, treo lên xà nhà, kéo lên kéo
xuống.

– Chúng đóng gióng trâu vào mồm nông dân, làm cho gẫy răng
hộc máu. Bơm nước vào bụng, rồi giẫm lên bụng cho hộc
nước ra.

– Chúng đổ nước cà, nước mắm vào mũi nông dân, làm cho
nôn sặc lên.

– Chúng lấy nến đốt vào mình nông dân, làm cho cháy da
bỏng thịt.

– Đó là chưa kể tội phản cách mạng của chúng. Trước kia
mẹ con chúng đã thông đồng với Pháp và Nhật để bắt bớ
cán bộ. Sau Cách mạng tháng Tám, chúng đã thông đồng với
giặc Pháp và Việt gian bù nhìn để phá hoại kháng chiến.

Trong cuộc phát động quần chúng, đồng bào địa phương đã
đưa đủ chứng cớ rõ ràng ra tố cáo. Mẹ con Cát-hanh-Long
không thể chối cãi, đã thú nhận thật cả những tội ác
hại nước hại dân. Thật là:

Viết không hết tội, dù chẻ hết tre rừng,
Rửa không sạch ác, dù tát cạn nước bể!

(21-7-1953)
<strong>C.B.</strong>

<em>Tác giả bài báo được ghi là: C.B. </em>
<strong>Nhà tan cửa nát
</strong>
Theo nhà báo Xuân Ba thì ngay sau khi bà Năm bị bắt, Đội cải
cách đã nhiều lần khám xét, lục lọi mọi hang cùng ngõ hẻm
ngôi nhà, khu vườn của gia đình bà Năm và đem đi tất cả
những gí, kể cả dao cùn, giẻ rách,có thể mang đi được.
Theo lời cô dâu cả bà Năm thì trước khi bị bắt đưa đi bà
Năm còn ném lại cho cô một cái túi đựng đầy kim cương.
Trong một đợt khám xét Đội cải cách đã phát hiện ra cái
túi kim cương ấy và ra lệnh tịch thu! Tịch thu nhưng không hề
có biên bản, giấy biên nhận mà là thu trắng tài sản của
bọn tư sản địa chủ cường hào gian ác. "Không biết cái
túi của cụ nhà tôi mà đội cải cách tịch thu ngày ấy có
mang sung vào công quỹ hay là mang đi làm của riêng?" – Cô con
dâu bà Năm sau này mỗi lần nhắc lại việc này đều băn
khoăn với một câu hỏi như vậy.

Những người con của bà Nguyễn Thị Năm sau này có một cuojc
sống hết sức long đong. Theo nhà báo Xuân Ba thì ông Cát qua
đời năm 1989, ở tuổi 64, trong một tai nạn giao thông thảm
khốc. Còn ông Hanh, sau khi Đảng sửa sai CCRĐ, quyết định
đưa gia đình con cháu rời Thái Nguyên, mảnh đất đã chứng
kiến cảnh nhà tan cửa nát, nơi mà dẫu những gào thét
"địa chủ ác nghê"đã dịu đi đôi chút, nhưng còn đầy
thù hận và khổ đau. Ông đưa vợ con, cháu về Hà Nội. Vài
người bạn thân hoặc quen biết từng nhờ cậy gia đình ông
trước đây cho ở nhờ, Nay đây mai đó. Mãi sau này ông mới
tậu được một căn phòng nhỏ ở 117 Hàng Bạc và tá túc tại
đó cho tới ngày nay, khi cả hai ông bà đã ở tuổi 90.

Năm 1998 ông Nguyễn Hanh và ông Nguyễn Cát hai con trai của bà
Năm đã được công nhận là cán bộ hoạt đông lâu năm, cán
bộ tiền khởi nghĩa. Còn người con dâu Đỗ Thị Diệp, sớm
hơn năm 1980 đã được xác nhận danh hiệu cán bộ hoạt động
lâu năm.

Còn riêng đối với bà Nguyễn Thị Năm thì người ta mới có
động thái duy nhất là hạ thành phần cho cụ từ tư sản
địa chủ cường hào gian ác xuống tư sản địa chủ kháng
chiến!

P/S: Tôi biết, trong cuộc CCRĐ còn nhiều người bị bắn oan,
nhà tan cửa nát, con cháu cũng long đong, lận đận, cơ cực
thậm chí còn hơn cả gia đình bà Nguyễn Thị Năm và cho đến
nay họ vẫn chưa được viết một dòng nào về số phận của
họ, con cháu họ. Tôi muốn dành bài viết này như một nén
hương dành cho bà Nguyễn Thị Năm và những nạn nhân như bà
để chúng ta, mà không chỉ chúng ta, không bao giờ quên một
trong những giai đoạn bi thương nhất của lịch sử dân tộc!

<strong>Ghi chú:</strong>

<ul> <li>Sau này trong Hồi ký của mình và trong nhiều bài trừ
lời phỏng vấn báo chí Ông Hoàng Tùng vẫn khẳng định lại
lời nói này.
(2) Theo một số nhà nghiên cứu khác thì lúc này hai con bà
Nguyễn Thị Năm là ông Hanh và ông Công không có mặt trong
phiên tòa này.
(3) Chưa xác định được chị Đăng trong phiên tòa này và cụ
Vãn mà nhà báo Nguyễn Thông nói trong "Làng Trà" có phải là
một không.</li>


***********************************

Entry này được tự động gửi lên từ trang Dân Luận
(https://www.danluan.org/tin-tuc/20140916/ve-nguoi-bi-ban-thi-diem-trong-cai-cach-ruong-dat),
một số đường liên kết và hình ảnh có thể sai lệch. Mời
độc giả ghé thăm Dân Luận để xem bài viết hoàn chỉnh. Dân
Luận có thể bị chặn tường lửa ở Việt Nam, xin đọc
hướng dẫn cách vượt tường lửa tại đây
(http://kom.aau.dk/~hcn/vuot_tuong_lua.htm) hoặc ở đây
(http://docs.google.com/fileview?id=0B_SKdt9lFNAxZGJhYThiZDEtNGI4NC00Njk3LTllN2EtNGI4MGZhYmRkYjIx&hl=en)
hoặc ở đây (http://danluan.org/node/244).

Dân Luận có các blog dự phòng trên WordPress
(http://danluan.wordpress.com) và Blogspot (http://danluanvn.blogspot.com),
mời độc giả truy cập trong trường hợp trang Danluan.org gặp
trục trặc... Xin liên lạc với banbientap(a-còng)danluan.org để
gửi bài viết cho Dân Luận!

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét